Nhiều bác HO dù sinh sống nhiều năm ở Mỹ vẫn chưa nhập tịch v́ học đâu quên đó. Qua các buổi thăm ḍ ư kiến, UBCNVB ghi nhận rằng trong giới HO mối quan tâm hàng đầu là nhập tịch. Nếu chưa phải là công dân Hoa Kỳ th́ phải chịu thiệt tḥi nhiều quyền lợi. Chẳng hạn, những người không là công dân th́ không thể nào bảo lănh cho con cái đă có gia đ́nh, cha mẹ, hay anh chị em. Đó là chưa kể đi ra ngoại quốc mà không có thẻ thông hành cũng có thể gặp khó khăn.
Nếu vi phạm luật pháp và bị kết án th́ có thể bị trục xuất. Và họ phải sống trong nơm nớp lo âu có ngày bị cắt những khoản trợ cấp xă hội.
Nhằm giải toả phần nào nỗi lo lắng ấy, từ năm 1998 UBCNVB đă có chương tŕnh hướng dẫn và giúp đỡ cho các bác HO xin miễn thi nhập tịch. Luật lệ và thể thức của Sở Di Trú cho phép những ai v́ khuyết tật thể xác hay tâm thần được xin miễn thi nhập tịch phần Anh Văn và có khi cả phần lịch sử và chính quyền.
Điều kiện để xin miễn thi là đương đơn phải chứng minh được rằng v́ bệnh tật mà không thể hoặc không đủ khả năng để học ngoại ngữ hay lịch sử và chính quyền Hoa Kỳ. Việc chứng minh này phải do bác sĩ y khoa hay tâm lư gia lâm sàng chứng nhận những điểm sau đây:
1) Điều kiện khiếm tật đă kéo dài ít nhất12 tháng tính tới ngày nộp đơn;
2) T́nh trạng này ảnh hưởng đến khả năng học ngoại ngữ hay hấp thụ kiến thức mới; và
3) T́nh trạng này sẽ không cải thiện trong tương lai.
Điều đáng lưu tâm là nếu t́nh trạng khuyết tật do hậu quả của cần sa ma tuư gây ra th́ đương không được hưởng quyền miễn thi.
Bác sĩ y khoa hay tâm lư gia phải điền mẫu N-648 với các chi tiết sau đây:
1) Mô tả sự phát triển bệnh tật của cơ thể hoặc tâm thần dựa theo các tiêu chuẩnđịnh bệnh được thừa nhận;
2) Giải thích bệnh tật gây khó khăn như thế nào cho đương đơn trong việc học ngoại ngữ hay hấp thụ kiến thức;
3) Xác nhận bệnh tật đă và sẽ kéo dài trong bao lâu;
4) Cho biết rơ kinh nghiệm về y khoa và khả năng của ḿnh khi xác định t́nh trạng bệnh tật cho đương đơn;
5) Xét bệnh có phải do hậu quả của việc sử dụng ma tuư hay không; và
6) Xác nhận những điều đă ghi là đúng sự thật và sẽ chịu h́nh phạt nếu khai gian.
Nhân viên di trú sẽ xét theo mức độ khuyết tật để không cho miễn thi, cho miễn phần Anh văn, hay cho miễn thi toàn phần.
Đó là về lư thuyết. Trong thực tế, chúng tôi để ư thấy việc cứu xét tuỳ theo chính sách của mỗi văn pḥng Sở Di Trú và thái độ của nhân viên xét đơn. Có những nơi, hầu như 100% đơn xin miễn thi nhập tịch do UBCNVB thực hiện đều được chấp thuận. Nhưng có vùng th́ gần như đơn nào cũng bị bác.
Có một số lư do cho sự bác đơn này. Thứ nhất là sự thiếu kinh nghiệm của bác sĩ hay chuyên gia tâm lư điền đơn. Nếu đơn không điền đúng thể thức đ̣i hỏi th́ sẽ bị bác.
Thứ hai là sự thiếu huấn luyện của các nhân viên xét đơn. Họ đọc đơn nhưng nhiều khi không hiểu rơ và quyết định tuỳ tiện.
Thứ ba là sự nghi ngờ khả năng hay đạo đức của vị bác sĩ hay chuyên gia tâm lư đă điền đơn.
Ở một số nơi các bác sĩ và chuyên gia này đă lạm dụng thể thức để kiếm tiền; hễ ai đóng cho vài trăm Mỹ kim là họ cứ điền mẫu chứng nhận một cách bừa băi. Sở di trú biết được và nghi ngờ tất cả các hồ sơ y chứng đến từ các bác sĩ và chuyên gia tâm lư này. Điều này gây ảnh hưởng lây cho cả những trường hợp bị khuyết tật thực sự: bị bác đơn một cách oan ức.
Thứ tư là thái độ cá nhân của mỗi nhân viên phỏng vấn. Có người dễ dàng và thông cảm c̣n có người th́ khó tính và gắt gao. Hên th́ gặp người dễ và xui th́ gặp người khó.
Nhằm gia tăng triển vọng cho đơn được xét một cách thuận lợi, UBCNVB từ nhiều năm qua đă hướng dẫn cho đương đơn và các bác sĩ hay tâm lư gia về thể thức điền đơn. Để thực hiện điều này một cách quy mô và rộng răi hơn, UBCNV B vừa kư hợp đồng với một tâm lư gia để soạn tài liệu hướng dẫn cho các bác sĩ về cách định bệnh và chứng bệnh cho phù hợp với thể thức đ̣i hỏi của Sở Di Trú.
Điều cần làm nhưng UBCNVB chưa có phương tiện làm là hướng dẫn cho các nhân viên Sở Di Trú hiểu về hoàn cảnh của các người HO, từ vấn đề tù cải tạo cho đến sự đàn áp sau cải tạo trở về. Tài liệu đang soạn kể trên cũng có thể sử dụng cho việc hướng dẫn này.
Một việc nữa cũng rất cần làm làbài trừ nạn chứng nhận gian để lấy tiền v́ như vậy sẽ gây ảnh hưởng tai hại cho những trường hợp xứng đáng.
Có nhiều bác HO than rằng dù biết có quyền xin miễn thi nhưng không có tiền để trả lệ phí xin thi nhập tịch. Thực ra những ai có thu nhập thấp đều có quyền xin miễn lệ phí. Những ai nằm trong một trong những trường hợp sau đây có thể xin miễn lệ phí bằng cách viết một lá thư xác định t́nh trạng của ḿnh kèm với các giấy tờ chứng minh:
1) Đang hưởng trợ cấp xă hội (Food stamps,Medicaid, SSI...) trong ít ra sáu tháng qua;
2)Thu nhập thấp (tính theo bảng định mức thu nhập của chính phủ LiênBang);
3) Trên 65 tuổi;
4) Phải nuôi nhiều người trong gia đ́nh; hoặc
5) Mất khả năng lao động v́ bệnh tật (cũng dùng đơn N-648 do bác sĩ chứng nhận về căn bệnh và xác nhận là bệnh tật đăcó tối thiểu là 12 tháng trước ngày nộp đơn).
Các giấy tờ chứng minh cho điểm 1-4 có thể gồm có: phiếu lương, W-2, thư xác nhận của chủ nhân, đơn khai thuế, giấy chủ quyền tài sản, báo áo của ngân hàng, biên lai điện nước, tiền điện hoại, tiền mướn pḥng, thực phẩm, chi phí y tế, chi phí trông con, v.v.
Lưu ư là lệ phí lăn tay luôn luôn phải đóng chứ không được miễn.
Cả hai đơn N-648 và thư xin miễn lệ phí phải nộp cùng với đơn xin nhập tịch N-400. Thư xin miễn lệ phí phải để lên trên cùng và ngoài bao thư cần ghi rơ “FEE WAIVER REQUEST.”
Các giải thích trên đây cho thấy rằng các bác HO, nếu quả thực bị mất khả năng hấp thụ ngôn ngữ hay kiến thức mới, có thể xin miễn thi phần Anh văn hay toàn phần. Hơn nữa, trong nhiều trường hợp họ c̣n có thể xin miễn lệ phí nhập tịch.
Nếu biết sử dụng hai điều khoản này th́ nhiều bác HO vẫn có triển vọng nhập tịch để trở thành công dân Hoa Kỳ.
Nếu có thắc mắc, quư vị có thể liên lạc với văn pḥng chi nhánh gần nhất của UBCNVB.