Oái Oăm của Lịch Sử: Khi Man Dă, Hung Tàn Lại Thắng Văn Minh, Nhân Nghĩa.
Khi trời rạng sáng, tiếng súng lớn nhỏ từ các ngoại ô, nhất là hướng phi trường Tân Sơn Nhất, đă rời rạc dần và chấm dứt hẳn vào khoảng xế trưa; sau khi Đài Phát Thanh Sài G̣n loan truyền lệnh buông súng của Tổng Thống ba ngày Dương Văn Minh. Dân chúng bắt đầu rời các nơi trú ẩn ùa ra đường. Người ta đă thấy các binh sĩ Cộng Sản miền Bắc tràn vào các ngơ nghách. Khi chạy lúp xúp qua những xóm nhà dân, họ chỉa súng quát tháo om ṣm để biểu lộ quyền uy của kẻ thắng trận. Bên ngoài đường phố, đă thấy những đoàn xe đủ loại: từ xe buưt chở khách đến các xe đ̣ đường dài, xe tải lẫn trong những chiếc xe Molotova màu cứt ngựa.
Trên xe là các du kích, lính địa phương Việt Cộng miền Nam. Sự phân biệt lính Việt Cộng miền Nam và bộ đội miền Bắc rất dễ dàng. V́ lính Việt Cộng miền Nam th́ ăn mặc lộn xộn, đủ kiểu đủ màu. Từ bộ bà ba đen cho đến chiếc quần ka ki xanh cũ, cái áo người th́ trắng đă ngả sang màu cháo ḷng; người th́ xanh, đỏ tím vàng… Họ đội những chiếc nón tai bèo và quàng quanh cổ chiếc khăn rằn hoặc xanh hoặc đỏ; chân mang đôi dép cao su cắt từ vỏ xe hơi và đặc biệt là họ có cùng một khuôn mặt đầy sát khí. Lính Bắc Việt th́ khác hẳn. Họ là những thanh thiếu niên c̣n rất trẻ; khuôn mặt xanh xao có vẻ ngờ nghệch, nhưng trang bị vũ khí đầy người. Họ mặc những bộ binh phục xanh lá cây thùng th́nh cắt may vụng về, quá khổ so với thân thể ốm đói nhỏ thó của họ.
Thỉnh thoảng, người ta thấy vài chiếc xe díp mui trần c̣n nguyên vẹn huy hiệu của quân đội miền Nam chạy qua. Trên xe là các thanh niên bặm trợn, và các thầy tu mặc áo nâu sồng. Họ mang băng đỏ bên cánh tay và cầm những khẩu súng M16 của Mỹ mới lượm được bên đường do quân miền Nam vứt bỏ. Đó là bọn đón gió trở cờ mà người ta gọi là bọn "cách mạng 30 tháng tư".
Hoà b́nh! Hoà b́nh!
Như một ḍng nước trong mát đối với những kẻ lữ hành trên sa mạc đă nhiều ngày và sắp quỵ gục. Như một chấm xanh xanh phía chân trời đối với người thủy thủ đang lạc hướng ngoài biển khơi. Đó là ước vọng sâu sắc nhất của những người Việt Nam cả hai bên bờ vĩ tuyến 17 sau 30 năm chiến tranh điêu linh, nếu tính từ khi chiến tranh Pháp Việt bắt đầu. Hoà b́nh! Trên quê hương vốn đă điêu tàn sẽ không c̣n nghe tiếng súng nổ, bom rơi. Vành khăn sô sẽ ngưng quấn trên mái đầu xanh các thiếu phụ. Những người cha chinh chiến bao năm sẽ trở về săn sóc dạy dỗ đàn con. Các bà mẹ sẽ không phải nḥa mắt đứng trước cửa ngày ngày ngóng tin con từ những chiến trường mờ mịt nào đó..
Sau một cuộc chiến dài đăng đẳng và quá tàn khốc, người Việt Nam đă quá kiệt lực. Họ mong mỏi hoà b́nh, và sẵn sàng chấp nhận trả với bất cứ giá nào. Đối với người dân thường miền Nam, họ biết sẽ có cuộc đổi thay sâu sắc dẫn đến nhiều mất mát. Nhưng ở mức độ nào th́ họ không thể đoán ra được. Những người miền Bắc đă di cư vào Nam năm 1954 th́ biết là sẽ khốn khổ, khốc liệt có thể đổ nhiều máu. Những quân nhân, cán bộ chính quyền miền Nam th́ đau đớn biết rằng từ đây sẽ mất tất cả. Một tương lai ảm đạm đang chờ đón họ và gia đ́nh. Nhưng họ chẳng c̣n sự lựa chọn nào khác. Họ đă mất các cơ hội leo lên những chuyến bay vội vàng hay những con tàu nêm kín người rời bến trong những giây phút hỗn loạn cuối tháng tư. Những người cầm đầu đă nhanh chân tẩu thoát. Giờ này không ai chỉ bày cho họ phương hướng nữa. Họ chờ đợi một cách bi hùng những ǵ sắp xảy đến cho đời ḿnh.
Khi chiếc xe tăng T-54 của Nga sô chế tạo cán sập chiếc cổng sắt của dinh Độc Lập và đám quần thần Dương Văn Minh ríu rít bước ra đứng sắp hàng như những tù nhân chờ giải giao th́ coi như "Lịch sử đă sang trang!"
Một trang tương đối huy hoàng của chế độ Cộng hoà đă bị xếp lại.
Một trang u tối ảm đạm của chế độ Cộng Sản đang được mở ra.
Đó là cảm nhận đau xót của tôi, một người lính có nhiều kinh nghiệm thực tế về cuộc chiến và những kiến thức về lư thuyết, sách lược Cộng Sản được trang bị trong bốn năm ở Đại học vừa dân chính, vừa quân sự.
Tuy nhiên, nhiều người miền Nam – trong đó, than ôi, có cả chúng tôi – rán nuôi một ảo tưởng rằng sau chiến tranh, những người Cộng Sản của cuối thế kỷ Hai mươi khi có chính quyền sẽ xử sự công chính và độ lượng hơn những tên Cộng Sản man dă của thập niên 1950. Cuộc tắm máu mà báo chí phương Tây dự đoán chắc sẽ không xảy ra. Mà dù có xảy ra, th́ âu cũng là số phận vậy.
Vài ngày sau, trong lúc thành phố Sài G̣n vẫn c̣n hoang mang và hỗn loạn, tôi thu xếp đưa vợ và bốn cháu về lại Vũng Tàu. Cầu Cỏ May bị đánh sập trước đó khoảng một tuần, hành khách phải xuống xe dùng đ̣ qua sông. Hai vợ chồng tôi và bốn cháu bé – có một cháu sơ sanh - vất vả vô cùng, loay hoay với mớ tài sản thu gọn trong hai chiếc vali lớn. Đến nhà, gặp lại Mẹ tôi mừng rỡ v́ thấy con cháu đều b́nh yên. Những đêm 28, 29 tháng Tư, Việt Cộng pháo kích bằng hoả tiễn vào khu nhà thờ Tân Sa Châu, là nơi tiểu gia đ́nh chúng tôi đang thuê nhà trú ngụ trong thời gian tôi làm việc cho hăng thầu LSI chuyên bảo tŕ phi cơ C-130 của Không Đoàn 53 Chiến Thuật. Đă quá quen với bom đạn, tôi bảo vợ con cứ ngủ yên trên giường. Bom rớt trúng chỗ th́ núp đâu cũng chết; c̣n rớt xa th́ c̣n mảnh văng theo ṿng cầu đă có vách tường cản bớt sức công phá.
Tuy ở Vũng Tàu đă lâu, nhưng tôi ít bạn. Thời c̣n ở bộ binh th́ mỗi năm về phép có một lần, ru rú ở nhà. Thời gian phục vụ trong quân chủng Không quân th́ cả gia đ́nh di chuyển theo ra Phan Rang.V́ thế, tôi chẳng có ai để hỏi han t́nh thế và bàn chuyện. Ông Sáu Khương, một người thợ hớt tóc gần nhà đến thăm, khuyên lơn an ủi. Hoá ra ông là cán bộ cơ sở của Việt Cộng tại địa phương. Ông biết quá nhiều về tôi, từ cá tính đến quan điểm lập trường. Bây giờ, trong chế độ mới, ông là khóm trưởng khóm Rẫy, phường Thắng Tam rồi. Sẽ phải vất vả v́ ông này thôi.
Loanh quanh ở nhà được gần một tháng th́ bắt đầu nghe có thông cáo gọi anh em hạ sĩ quan binh sĩ đi học tập ba ngày tại địa phương. Lớp này vừa về th́ có lệnh cho sĩ quan cấp tá đi "học tập" một tháng. Kế đó là sĩ quan cấp úy trong mười lăm ngày. Xét ra cũng hợp lư thôi. Cấp nhỏ "học" ít ngày; cấp trung "học" nhiều hơn một chút; cấp cao th́ "học" dài ngày. Thế là giải toả hết âu lo về việc "tắm máu"; ai nấy thở phào như cất bớt một gánh lo âu. Bây giờ chỉ c̣n câu hỏi của bản thân tôi. Thế th́ những người đă giải ngũ "học" bao lâu? Sao không thấy nhắc đến trong thông cáo?
Ông Sáu Khương nhanh nhẩu góp ư:
- Đă tham gia quân đội "ngụy" th́ bề ǵ cũng phải "học" thôi. Đi sớm th́ về sớm. Đi trễ th́ về trễ.
Thế là tôi thu xếp một túi hành trang gọn, bọc theo một ít tiền vừa đủ chi dùng trong mười lăm ngày; tạm biệt mẹ, hôn vợ và các con rồi quày quả ra đi.
- Mười lăm ngày cũng nhanh. Em rán tiêu xài dè xẻn chút tiền c̣n lại, chờ anh về.
Tuy đă quen nếp sống xa nhau từ những năm tôi đi chiến đấu xa nhà, vợ tôi cũng cảm thấy ái ngại. Có một điều trùng hợp ngẫu nhiên.Trước đó mấy hôm, rảnh rang không làm ǵ, tôi lôi cuốn "Giờ Thứ Hai Mươi Lăm" của C. V. Georghiu ra đọc. Câu chuyện anh chàng Ian Moritz ở xứ Romania cũng từ giă người vợ đang mang bầu để theo lệnh tập trung đi làm lao động trong muời lăm ngày ở pḥng tuyến biên giới Romania và Hungaria. Rồi biền biệt muời lăm năm, anh phải trải qua hàng chục trại tù khổ sai của nhiều nước khác nhau trước khi được quân đội Mỹ cứu thoát ở Đức khi Thế Chiến thứ hai kết thúc. Tôi vô tâm không hề suy nghĩ và so sánh đến hoàn cảnh của ḿnh. V́ nếu thật biết vậy, ai trong trường hợp này cũng thà trốn đi chứ có ngu ǵ đút đầu vào cái bẫy gian dối kia!
Ngày Thứ Nhất của Mười Lăm Ngày "Học Tập Cải Tạo"
Chúng tôi được những chiếc xe đ̣ dân sự đưa về hướng Bắc trên con đường tỉnh lộ, qua các địa danh B́nh Ba, B́nh Giă nổi tiếng một thời. Xe dừng ở "Trại Lê Lợi" trên một ngọn đồi nhỏ, nơi trước đây là căn cứ Tiếp Vận của Tiểu Khu Long Khánh. Tên trại vẫn c̣n là tên cũ của Quân Lực VNCH mà Việt Cộng chưa kịp thay đổi. Mấy trăm con người được đưa vào trong bốn dăy nhà tôn tiền chế trước đây làm nhà kho; nhưng nay đă trống trải ngoại trừ bốn dăy sạp gỗ mới làm xong để làm chỗ ngủ cho "cải tạo viên". Nơi đây có một đơn vị quân chính quy Bắc Việt trú đóng. Bao b́, thùng bọng của quân Cộng Hoà vương văi đó đây, nhưng hàng hoá, quân dụng chắc đă bị cộng quân thanh toán gọn gàng hết rồi. Một sĩ quan Cộng Sản đọc tên từng mười người, phiên chế thành một A (tiểu đội); bốn A thành một B (trung đội); bốn B thành một C (đại đội) và huớng dẫn mỗi C vào một căn nhà. Nhiều người t́m những bạn bè quen biết để chiếm các chỗ ngủ kế nhau. Riêng tôi, không quen ai, nên chẳng bận tâm mấy. Nằm đâu cũng thế; chỉ mười lăm ngày th́ cũng nhanh thôi. Trong đoàn chúng tôi có một nữ Trung Úy, - chị Lê Thị Huệ - phục vụ ở Đặc Khu Vũng Tàu. Chị Huệ là vợ của anh Hồ Văn Khởi, năm 1971 là trưởng ban Hai kiêm Trung đội trưởng Quân Báo của Tiểu đoàn 4/8 nơi tôi đang chỉ huy Đại đội 15. Sau trận Snuol, anh được chuyển về trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu. Tôi không quen với chị Huệ, nên cũng không tiện tiếp xúc. Chị thu vén một góc cuối căn nhà để làm chỗ ngủ v́ biết chắc sẽ không có chỗ nào khác đặc biệt cho phụ nữ tại một nơi mà chỉ toàn nam giới. Trên chiến trường Miền Đông Nam Phần, tôi đă nhiều lần phát giác các căn cứ du kích gồm một tổ hợp những hầm ch́m dưới đất. Trong các hầm đều có lương thực dự trữ và đặc biệt có đủ quần áo, đồ lót phụ nữ. Tra vấn tù binh mới biết rằng họ sống chung đụng gái trai như thế (hai nam một nữ trong một hầm). Có lẽ quen việc chung đụng như thế, nên họ không nh́n thấy và thông cảm cho một t́nh huống rất khó khăn cho những nữ binh miền Nam, và cho ngay cả mấy trăm bạn nam đồng cảnh.
Buổi chiều đầu tiên, mấy anh lính Bắc Việt nh́n chúng tôi có vẻ ḍ xét; và một phần nào e sợ. Th́ ra các chính trị viên Cộng Sản đă nhồi nhét vào đầu óc họ h́nh ảnh người lính miền Nam chuyên giết người để ăn gan uống mật, "cực kỳ" hung ác. Có anh, khi bất ngờ chạm mặt chúng tôi, đă tỏ ra hốt hoảng. Sau này mới biết là họ tưởng quân nhân miền Nam ai cũng giỏi vơ nên họ sợ bị tấn công.
Một anh, có lẽ là hậu cần, cầm một cuốn sổ đến gặp chúng tôi. Anh lính này trông có vẻ cục mịch, nhưng hiền lành. Anh hỏi anh em chúng tôi cần mua thức ăn, thức uống hay món linh tinh ǵ không, th́ anh sẽ đạp xe xuống phố mua ngay. Thế là anh em chúng tôi lấn tới, hỏi anh có thể ra bưu điện gửi giùm thư của chúng tôi về gia đ́nh không. Anh bối rối trả lời: "Chúng tôi chưa có lệnh ǵ về việc liên lạc với gia đ́nh các anh." Chừng hơn một giờ sau, anh lọc cọc đạp xe trở về. Sau yên xe là một bao tải to lớn mà anh cột chằng chịt những loại dây khác nhau, kể cả cọng dây tước từ cây chuối tươi. Trên áo anh mồ hôi nhễ nhải; anh thở dốc từng cơn ra vẻ rất nhọc nhằn v́ phải đạp xe lên đồi. Chúng tôi thấy ái ngại và phần nào cũng tự an ủi rằng: "họ cũng đối xử tốt với chúng ta."
Trong lúc chờ anh bộ đội đi mua hàng về, chúng tôi được lệnh cử mỗi tiểu đội một hai người để đi lấy nước. Họ chỉ cho chúng những thùng đạn đại liên 30 và ống đạn 105 ly chất đống trong sân để làm vật liệu chuyển nước. Chúng tôi đi theo hai anh bộ đội vơ trang đi ra khỏi trại, vào một khu vườn lớn của dân cách đó chừng một cây số, nơi có một giếng nước. Đi về như thế nhiều chuyến, chúng tôi đă đổ đầy các thùng phuy ở mỗi góc nhà và tại nhà bếp của trại.
Người ta đă đào sẵn hai dăy nhà cầu bên ngoài giữa hai lớp hàng rào kẽm gai. Không có cách ngăn giữa các hố xí, chỉ có một tấm b́nh phong sơ sài che phía trước làm bằng tre và lá chuối. Hai dăy hố, phía trên có các thanh sắt - loại cọc sắt ấp Chiến lược – làm chỗ ngồi. Lần đầu tiên trong đời chúng tôi phải làm công tác vệ sinh trong loại nhà cầu như thế này và cũng không cần che đậy nhau thứ ǵ! Trước c̣n ngượng ngập, rồi cũng quen dần đi.
Đêm đầu tiên trong "trường cải tạo", ít ai ngủ được dù rất mệt mỏi. Tâm tư c̣n bao vương vấn về gia đ́nh. Chúng tôi chưa thấy quá lo lắng cho tương lai ḿnh, nhưng ưu tư về cách nào mà các bà vợ chân yếu tay mềm có thể bươn chải sống qua những ngày đổi đời sắp tới. Trong cái yên ắng của một đêm không trăng nơi xứ lạ, tôi nghe nhiều tiếng thở dài và âm thanh của những người đang trăn trở trên cái sàn gỗ c̣n mới với những vệt bào nham nhở.
Đâu ngờ rằng đó là cái "thiên thu" đầu tiên của hàng ngàn cái "thiên thu" dằng dặc của những người càng ngày càng đi sâu vào những tầng địa ngục trần gian!
(Trích Hồi Kư Cuối Tầng Địa Ngục của Đỗ Văn Phúc)
[Nguyệt San Mạch Sống thuộc hệ thống truyền thông của Uỷ Ban Cứu Người Vượt Biển: http://www.machsong.org.]