Tràm Cà Mau
(kỳ trước)
Nằm trên nhánh cây, tôi suy nghĩ, sắp đặt chương tŕnh hành động đối phó với các trường hợp có thể xảy ra. Cùng lắm là bị bắt, khi đă chấp nhận có thể bị bắt rồi, th́ ḷng tôi lắng xuống. Nếu nơi đây có người ở, và có chính quyền Cộng Sản, th́ tôi phải tiếp tục trốn tránh, rồi t́m cách, lấy một chiếc thuyền đi về đất liền, nhưng giờ th́ phải tránh sao cho khỏi bị bắt trước đă.
Đă ở tù Cộng Sản một lần rồi, tôi ngán lắm. Trưa hôm đó, tôi leo lên đỉnh đá cao nh́n xuống, thấy xa xa bên kia, có bóng cây dừa, và h́nh như có băi cát bằng. Tôi cẩn thận đi về hướng băi dừa, đi rất chậm, nh́n quanh ḍ xét đặt từng bước, vạch cây, vén lá, cố không để lại dấu vết nào. Khi qua một quăng đất trũng, tôi thấy cả một vường khoai ḿ, có vẻ như mọc hoang, nhưng nhiều gốc ḿ trốc đất nằm ngổn ngang. Đúng là đảo có người ở. Tôi yên lặng nằm sát đất có cây cỏ cao che kín, đợi chờ xem có ǵ lạ không. Chỉ có tiếng chim kêu và mấy con sóc chuyền từ cành này qua cành khác.
Tôi ra ŕa đá, nh́n xuống xa xa, thấy có căn cḥi lá nhỏ, và một bóng người thấp thoáng. Tôi yên lặng quan sát và ŕnh xem sinh hoạt động tĩnh. Bóng người đi vào căn cḥi rồi khuất dạng. Tôi chờ đợi thêm nhiều tiếng mà không thấy ǵ, bèn đi ṿng quanh, cố t́m hiểu dân số và tổ chức chính quyền trên đảo. Nhưng h́nh như chỉ có căn cḥi duy nhất đó mà thôi. Tôi quay lại vườn khoai ḿ, dùng nhánh cây nhọn đào được mấy củ lớn, bóc vỏ và ngâm vào vũng nước cho bớt chất nhựa, rồi cẩn thận ăn thật ít, ăn thật chậm. Kinh nghiệm ở tù cho tôi biết say khoai ḿ có thể tán mạng dễ dàng. Thế này th́ cũng không lo đói. Tôi leo lên nhánh cây có lá phủ kín nh́n xuống căn cḥi, biết đâu đó là trạm canh gác của công an biên pḥng Cộng Sản. Không biết vùng này thuộc lănh thổ nước nào, Việt Nam, Cao Miên hay Thái Lan? Buổi chiều, khi nắng phai màu, tôi thấy có thêm hai bóng người nữa đi về căn cḥi. Ba người ngồi trên tảng đá, h́nh như họ đang ăn và nói chuyện. Bóng chiều xuống dần, tôi tự họi, không biết mấy người này làm ǵ trên hoang đảo, họ là ai, có nhiệm vụ ǵ.
Hoàng hôn dần dần phủ lấp hải đảo. Khi trời tối hẳn, tôi lom khom đi về phía căn cḥi, cố gắng để không gây tiếng động. Cố thở thật nhẹ, và chỉ di chuyển khi có gió gây tiếng động xào xạc trong tàn lá. Tôi nằm yên nghe ngóng. Họ đang nói chuyện, tôi chỉ nghe loáng thoáng tiếng nói mà không biết họ dùng ngôn ngữ nào. Khi ba bóng người đi vào căn cḥi, th́ tôi cũng quay trở lại hướng núi đá cao, t́m một nơi ngủ qua đêm. Gió quá, tôi lần xuống băi cát đào một cái hố chắn gió, và nằm ngủ ngon giấc. Suốt một ngày lo lắng, mệt nhọc, tôi ngủ thật say, gió biển lành lạnh. Sóng đập ŕ rầm, tôi nằm mơ thấy ḿnh đang đi ngữa Sàig̣n vào thời Cộng Sản chưa chiếm đóng.
Sáng dậy, tôi xoá dấu tích của ḿnh trên cát, và vào rừng cây rậm ẩn nấp. Cái phao nhựa thành b́nh đựng nước. Tôi đập vỡ một số ṣ bám trên mặt đá, ăn với khoai ḿ sống đă được ngâm nước từ hôm qua. Leo lên dốc đá, tôi nh́n xuống căn cḥi ŕnh rập. Mấy cây dừa sai trái, thân cao vút, làm tôi thèm lắm, nhưng không biết làm sao hái được. Đă là dân thành thị không biết leo trèo, lại c̣n phải ẩn nấp dấu diếm, th́ mong chi có dừa ăn. Nhưng dù sao đi nữa, đêm nay tôi sẽ cố gắng, t́m cách leo thử. H́nh như đă có lần tôi thấy người ta dùng một ṿng dây máng vào hai chân, móc quàng qua thân cây mà leo lên dần. Tôi cẩn thận đi ṿng xuống băi bên kia, thấy rau lang và giàn dưa leo. Tôi hái dưa ăn, dưa thơm và ngọt lịm như tôi chưa từng ăn bao giờ, tôi bỏ thêm mấy trái vào túi quần và thử ṃ xuống cát xem khoai lang đă có củ chưa, nhưng chỉ thấy toàn dây và rễ nhỏ.
Có lẽ v́ ăn quá nhiều khoai ḿ sống, buổi trưa tôi thấy say say và buồn ngủ. Tôi nằm dài trên tảng đá bằng phẳng, đánh một giấc ngon lành, không biết ngủ được bao lâu. Đang nằm ngủ mê man, bỗng tôi chợt thức giấc và có linh cảm như ai đang nh́n ḿnh. Tôi vùng ngồi dậy khi thấy có đôi mắt nh́n sát vào mắt tôi. Tôi chợt nhận ra một chú bé chừng mười lăm tuổi. Nó hốt hoảng thối ui, và vấp chân té ngửa. Nhanh như chớp, một viên đá lớn từ xa bay đến đánh bốp vào đầu tôi, làm tôi ngă xuống, hai tay ôm đầu rên rỉ, máu chảy ướt tay. Trán tôi sưng vù như quả ổi, đầu nhức nhối, cố gắng chống tay dậy, nhưng không dậy nổi. Chuyện ǵ xẩy đến đây. Dân làng họ có bắt tôi giao cho chính quyền không? Tôi chợt ân hận đă hớ hênh nằm ngủ quên. Tôi nằm quằn quại trên tảng đá. Thôi th́ đành liều. Có bị bắt th́ sẽ tính sau. Tôi nghe đối thoại bằng tiếng Việt, giọng rất khó nghe, mới hiểu rằng, chị cậu bé tưởng tôi tấn công, nên ném đá yểm trợ cậu em. Một lúc sau có tiếng đàn ông, và tôi được đắp lá nhai dập lên vết thương. Tôi hé mắt nh́n, thấy một người đàn ông tóc tai phủ ra sau vai, râu ria xồm xoàm như người vượn, mặt sạm đen, đóng một cái khố nhỏ bằng da thú, chỉ có đôi mắt sáng đợm ánh lạ kỳ. Cả ba người đều đóng khố, thân trên để trần. Có lẽ thổ dân trên đảo, hoặc giống dân thiểu số trong vùng này. Khi bớt đau đớn, tôi cho họ biết là bị đắm tàu, dạt vào đây. Họ d́u tôi về căn cḥi mà hôm qua tôi ŕnh rập ḍ xét. Chú bé đưa cho tôi nước uống trong chén vỏ dừa. Người đàn ông tự giới thiệu là ông Tư, sinh quán trên đảo này. Ông nội của ông Tư ngày xưa làm quan vơ, pḥ tá vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở. Khi vua bị Tây bắt, ông cụ cùng một nhóm quan sĩ tiếp tục kháng chiến theo hịch cần vương. Sau đó, theo cụ Phan Đ́nh Phùng khởi nghĩa kháng chiến trong nhiều năm. Cuối cùng, khi tan ră, cụ nội đem gia đ́nh và một nhóm thuộc hạ xuống thuyền đi Xiêm La, nhưng gặp băo giữa đường, phải ghé lại đảo này. Sau đó không đi được v́ thuyền ch́m. Ban đầu có bốn gia đ́nh lập cư. Dần dần chết hết, chỉ c̣n ông Tư và hai người con. Bà Tư trẻ hơn ông Tư chừng hai mươi tuổi, nhưng mất sớm.
Trên tường đá treo mấy cây kiếm và bao kiếm chạm trổ rất tỉ mỉ và đă hoen ố bụi thời gian. Không là chuyên môn, tôi cũng đoán ra được đó là những thanh bảo kiếm. Ông Tư cho biết, một trong những thanh kiếm là của ông Tôn Thất Thiệp, kiếm pḥ vua. Mấy đời cha ông, mong có cơ hội trở về đánh đuổi giặc Tây ra khỏi nước. Khôi phục gian sơn. Ông nói rằng, có lẽ đời ông không làm ǵ được nữa, chờ cho thằng Ba lớn lên, mong nó nối mộng cha ông. Ông thở dài năo ruột. Th́ ra, ông không biết ǵ về t́nh h́nh thế giới, t́nh h́nh đất nước trong gần tám mươi năm qua. Tôi chậm răi cho ông biết, Tây đă về nước hơn hai mươi năm rồi. Bây giờ th́ Cộng Sản cai trị đất nước, họ c̣n tàn bạo, khắt khe và áp bức hơn cả giặc Pháp. Nhân dân đau khổ và đói rét hơn cả thời nô lệ ngoại bang. Có lẽ ông Tư không hiểu nhiều về những lời tôi nói v́ không lẽ dân ḿnh cai trị nhau mà khắt khe tàn bạo hơn ngoại quốc thực dân. Nhưng ông cũng vui khi nghe giặc Tây đă ra đi, và theo ông, th́ nay không c̣n băn khoăn, cánh cánh bên ḷng v́ lời di huấn của tổ tiên. Yên tâm sống. Ông không c̣n sợ tuyệt tự, không c̣n ai nối chí cha ông. Tôi cảm thương tấm ḷng của ông Tư. Giấc mơ đuổi giặc Tây đă truyền qua ba đời mà vẫn chưa nguội lạnh. Tôi cũng mang một giấc mơ tương tự, đuổi giặc Cộng ra khỏi quê hương. Chính ông Tư cũng không biết tuổi tác của ông và cả hai con ông. Ngày tháng cứ trôi đi, không ai để ư đến thời gian. Cô Hai, theo tôi đoán th́ xấp xỉ trên dưới hai mươi, và chú Ba, th́ khoảng mười lăm. Thân ḿnh cô Hai mảnh khảnh, chắc như tượng đồng. Mái tóc đen dài thả lỏng trên lưng. Vầng trán cao, bóng. Đôi mày cong che đôi mắt long lanh sáng, trong mắt như có nụ cười. Hai làn môi thanh tú. Cổ cô dài nối liền tấm ngực mà hai vú lớn cong ngược lên. Lưng thon, mông chắc chắn, đôi chân dài. Cô Hai chỉ đóng cái khố da thú nhỏ che ngang người. Chú Ba th́ như con gà mới lớn, lỏng thỏng, dáng dấp vụng về, chỉ có đầu tóc dài không cắt làm cho thêm phần hoang dă.
Tôi được gia đ́nh này đón nhận với ḷng hoan hỉ. Ông Tư tường nh́n tôi với ánh mắt tràn đầy t́nh cảm dịu dàng. Cậu Ba quấn quưt quanh tôi, không rời nửa bước, và hỏi, nói đủ thứ chuyện. Phần cô Hai, th́ rất tự nhiên, không có chút e lệ nào, h́nh như không biết phân biệt trai gái và có những đụng chạm cùng tôi, mà đôi khi tôi ái ngại. Để hoà hợp, tôi chỉ đóng cái khố nhỏ qua người. Tham gia sinh hoạt trong gia đ́nh này. Tôi từ từ kể cho ông Tư nghe về diễn biến lịch sử xảy ra cho đất nước từ khi Tây chiếm Việt Nam, những phong trào khởi nghĩa chống Pháp, Đệ Nhất, Đệ Nhị Thế Chiến, Nhật Bản vào, rồi Pháp trở lại, chiến tranh dành độc lập, Pháp rút về, tiếp theo là cuộc nội chiến gần 20 năm, Cộng Sản miền Bắc thắng. Dân niềm Nam không chịu nổi chính sách hà khắc bỏ nước ra đi. Ông Tư th́ c̣n hiểu nhiều, chú Ba và cô Hai th́ nghe, mù mờ, ngơ ngác. Tôi cũng bỏ nước trốn đi như ngày xưa cụ tổ của gia đ́nh này, v́ không chịu được giặc Pháp. Không phải chỉ ḿnh tôi, cả nước muốn trốn đi, tránh cái chế độ khắt khe chưa từng có trong lịch sử Việt Nam.
[Nguyệt San Mạch Sống thuộc hệ thống truyền thông của Uỷ Ban Cứu Người Vượt Biển: http://www.machsong.org.]