Mạch Sống Online
· Truyền Thông Mạch Sống
· Trang Nhà BPSOS
· Chống Nạn Buôn Người


Chuyên Mục

:: HÃY CỨU CỒN DẦU
:: ĐÒI TÀI SẢN
:: NGÀY VẬN ĐỘNG CHO VN

40 Năm Tị Nạn
An Toàn Lao Động
Bạo Hành Gia Đình
Chống Nạn Buôn Người
Chủ Quyền Quốc Gia
Cứu Trợ Thiên Tai
Di Dân & Nhập Tịch
Định Cư Nhân Đạo
Lịch Sử Qua Lời Kể
Mái Ấm Gia Đình
Nhân Quyền
Nhân Vật Trong Tháng
Phát Triển Cộng Đồng
Quan Điểm
Sống Đẹp
Sức Khoẻ
Tài Chánh
Tị Nạn
Thế Hệ Trẻ
Thư Toà Soạn
Tin Cập Nhật
Tin Sinh Hoạt
Tin Trang Nhất
Tin Tức Thời Sự
Truyện Ngắn
TPP
Tuổi Hạc
Tù Nhân Lương Tâm
Tự Do Tôn Giáo
Văn Khố Thuyền Nhân
Xoá Bỏ Tra Tấn

Chức Năng Thông Dụng
· Đọc Theo Chủ Đề
· Đọc Theo Số Báo
· Ghi Danh vào Email List
· Quảng Bá Mạch Sống
· Top 15
· Ý Kiến Độc Giả
· Liên lạc tòa soạn
· Gửi bài cho Mạch Sống
· Phiếu Đóng Góp
· Census 2010
· Tìm kiếm

Ghi Danh Nhận Tin
Ghi Danh Nhận Bản Tin Mạch Sống
Tìm Kiếm


Hit Counter
We received
27893076
page views since June 01, 2005
MS29 - 11/04: Một Chút Nhớ Quên (tiếp theo)

Lịch Sử Qua Lời KePhan Lạc Tiếp

Bữa ăn đã diễn ra với tất cả nghi lễ rất kiểu cách như định bởi Hải Quy của các Hải Quân Aâu Mỹ. Tuy nhiên những món ăn thì pha trộn, vừa tây vừa ta, trong đó có món chả giò và bánh tráng, nước mắm đã được đem đi từ Việt Nam. Khi món tráng miệng được mang ra, mọi người như đã quen thân, giáo sư Xương hỏi :” Các anh ăn uống trịnh trọng, kiểu cách như vậy, thì còn thì giờ đâu mà làm việc…” Hạm trưởng cười, nói :” Đâu có, ở Việt Nam chúng tôi sống rất là đạm bạc. Bây giờ ở Mỹ, thực phẩm do Mỹ cung cấp rất đầy đủ, nên việc đón tiếp giáo sư hôm nay cũng là dịp để chúng tôi thực tập các nghi thức đã ghi trong hải quy mà thôi…” Mọi người cười xoà.



Những nghi thức bỗng dưng tan biến. Hạm Trưởng lấy cây đàn cò treo từ trên tường xuống, trịnh trọng tặng ông bà giáo sư Nguyễn hữu Xương. Từ cây đàn cò khiến câu chuyện nhắc đến những điệu trống quân, đến các câu ru em, cò lả. Và tôi đã được bạn cùng khoá, Đinh mạnh Hùng ( Hùng mèo) nói :” Mày ngâm vài câu đi “. Mọi người ồn ào “ Ngâm đi, cò lả đi” . Không thể từ chối, tôi đã đứng ở giữa phòng, sửa soạn. Mọi người im phăng phắc, như đợi tiếng đàn, nhưng rồi nhìn nhau, chẳng ai biết đàn cả, cười khì. Tôi đành cất tiếng:

Con cò ( mà ) bay lả ( chứ ) bay la.
Bay qua (là qua) ruộng lúa (chứ ) bay về (là về) đồng xanh
Tình tính tang, tang tính tình, cô nàng rằng, cô nàng ơi rằng………..

Mọi người bỗng vỗ tay, hát theo và cười vui. Giáo Sư Xương cũng vỗ tay, nhưng tôi để ý thấy mắt ông rưng rưng lệ. Tan buổi tiệc, Giáo Sư Xương có hỏi tôi rằng : “ Là sĩ quan, các anh có phải là những nghệ sĩ nữa không. Lâu lắm, tưởng đã quên, tôi mới được nghe lại câu hát này. Câu hát làm tôi nhớ mẹ tôi…”. Tôi nói : “ Không. Chỉ là sự tình cờ, chúng tôi hát hò tài tử mà thôi”, và quen biết Giáo Sư Xương từ đó.

Con tàu đã trở nên thân quen với thuỷ thủ đoàn Việt Nam. Rộn rã những buổi tiếp tân, những chuyến viếng thăm đây đó trên đất nước to lớn và hùng mạnh này đã lắng lại, nhạt nhoà. Những bữa cơm trên tàu đã bắt đầu mang hương vị quê hương, nhiều rau hơn thịt. Trong những ngày nghỉ cuối tuần, nằm trong lòng tàu, nghe tiếng nước êm ả xôn sao chảy miên man ở chân cầu, tôi có cảm tưởng mở mắt nhìn qua cửa sổ tròn chiến hạm, mình sẽ thấy những hàng dừa xanh đong đưa cành lá ở bến Bạch Đằng. Trong thinh không nghe đâu đây như có tiếng xe xích lô máy nổ vang, khói phun mờ mịt chạy như đi trốn, mất hút trên đường Trần hưng Đạo, Sài Gòn. Những ngày cuối tuần nằm trong chăn mà nhớ nhà, nhớ hơi ấm của vợ, nhớ tiếng nói ngây thơ của con. Nhớ con hẻm vào khu nhà mình, nhớ cả tiếng động buổi mai nơi xóm nghèo bao quanh. Tiếng những bước chân ai nặng nề quảy đôi thùng nước từ đầu phố vào tuốt sâu trong ngõ mút xa. Nhớ những buổi dậy trưa, vợ chồng đèo nhau trên chiếc xe vespa, đi tìm bát phở ấm đầu ngày. Nhớ vị phở ngọn đậm ở thìa nước đầu nếm thử. Nhớ vị cay nhẹ của lát ớt, vị béo bùi của thớ thịt tái chạm vào đầu lưỡi… Oâi, nói thế nào cho hết. Nhớ từ mùi cống hôi hôi đầu ngõ phủ đầy rác rưởi. Nhớ đến quay quắt cả người. Nhớ nôn nao chùm phủ cả trong giấc ngủ. Tôi chỉ mong chóng đến ngày tàu khơiû hành về nước mà thôi.

Rồi ngày đó cũng đến. Hôm tàu rời bến về nước, ngoài ban quân nhạc của căn cứ, trên cầu tàu có mấy người bạn mới quen đưa tiễn. Anh Trương văn Tính, một cựu sĩ quan Thuỷ Quân Lục Chiến, cùng dạy Việt ngữ cho quân nhân Mỹ với các cô H, và Bác Sĩ Nguyễn Tôn Hoàn đưa tiễn. Chính anh Tính là người đã tháo khoen giây cuối cùng cho tàu rời bến, về nước. Nhưng đứng một mình riêng lẻ là một cô gái Mỹ, bạn gái của một anh trung sĩ của tàu tôi. Không biết từ những quen biết nào mà trong những ngày cuối tuần tại đây, những hôm không phải phiên trực, anh xin phép được ngủ ngoài như một quân nhân có gia đình. Ngày sắp về nước, mọi người đi mua sắm, đồ mới thì ít mà đi mua đồ garage sale thì nhiều. Ai cũng dành dụm cố tìm mua một cái tủ lạnh cũ đem về tặng vợ con Đa số là những tủ lạnh còn chạy tốt, nhưng cổ lỗ sĩ, cồng kềnh. Anh trung sĩ kia thì khác. Người bạn gái Mỹ của anh chở đến tặng anh một cái tủ lạnh loại vừa vừa, mới tinh, còn bọc trong hộp. Bây giờ tàu rời bến, rời hẳn để ra khơi, vượt Thái Bình Dương, về nước. Tàu tách bến, quay mũi. Tôi từ trên đài chỉ huy nhìn xuống, những người ở lại giơ tay vẫy vẫy rồi lần lượt tản mát ra về. Trên cầu tàu, cô gái Mỹ vẫn còn đứng đó. Tàu xa dần. Hình co gái nhỏ dần, đen đậm như một cái chấm nhỏ, đơn độc, chơ vơ. Tàu đi dọc theo bờ biển chi chít những con tàu nhỏ, loại tàu thể thao. Đường Boadway chạy dài hun hút ở phía tay mặt. Tàu rẽ trái đi theo hướng chính nam, dọc theo đảo Paloma để ra cửa biển. Bên trái là bán đảo quân sự. Cầu tàu có một hàng không mẫu hạm đậu. Những ngôi nhà thấp, nơi chúng tôi thường lui tới học hành những ngày tháng qua. Gió đã nổi. Tàu sửa soạn rẽ mặt để thực sự ra khơi. Máy đã tiến qua Nhiệm sở vận chuyển và từ giã bến vừa dứt. Còi gọi phiên hải hành réo gọi. Mọi người trong quân phục xám xanh, thay vì trắng, lên đảm nhận phiên hải hành thường lệ.Tôi ngoảnh cổ nhìn về phía sau, qua những dãy nhà thấp của bán đảo Coronado, San Diego chỉ còn là mấy đỉnh nhà cao đã phủ mờ hơi sương và khói sóng. Không biết cô gái Mỹ kia có còn đứng ở cầu tàu, hay đã âm thầm lui gót.

Khi con tàu rời khỏi cửa biển Point Loma, hướng mũi ra khơi, qua cái phao- chuông chòng chành buông những tiếng kêu lanh canh ở tận cùng cửa biển, lòng tôi vừa mừng vừa bâng khuâng, lo lắng. Mừng là chúng tôi đang trên đường trở về quê hương, nơi vợ con đang nóng lòng chờ đợi. Bâng khuâng vì nhớ tiếc những nơi mình đã ở, đã đi qua với tất cả những lạ lùng, đẹp đẽ mà con cái mình, vợ con mình không có cơ may được thấy. Lo lắng vì trước mặt là biển Thái Bình Dương mông mênh, sóng gió, những trắc trở nào trên hải trình 40 ngày trước mặt. Nhưng tôi cũng như mọi người trên tàu có lẽ đều nghĩ rằng : “ Thôi, xin giã từ nước Mỹ. Xin trả lại những huy hoàng, hùng mạnh của nước Mỹ cho nước Mỹ. Chúng tôi không ở đây nữa đâu.” Con tàu lầm lũi đi. Đêm đã xuống. Hải đăng ở mũi Point Loma đã không còn ánh lên nữa. San Diego xa dần và chìm khuất dưới chân trời đêm còn hừng ánh sáng. Tiếng máy tàu chạy êm ả, đều hoà. Thái bình dương, một đại dương lớn nhất của địa cầu, bỗng trở nên mông mênh, đe doạ. HQ 505 óng ánh đèn hải hành xanh đỏ ở phía sau. San Diego xa hẳn. Cả vùng sáng mung lung đã không còn nữa. Thôi thế là giã từ nước Mỹ, và tôi đã nghĩ rằng, tôi không bao giờ trở lại đây nữa. Xin vẫy tay chào.

Sau 7 ngày đêm hải hành giòng giã. Những vị trí hải hành thiên văn liên tục, chồng chất trên những vị trí của máy loran vẽ trên những tờ giấy trắng không kẻ ô, không có hình núi non gì cả. Quang độ rất giới hạn vì sương. Những đám sương bay la đà khiến mũi tàu nhấp nhô, khi ẩn khi hiện. Biển đêm và chân trời thì mịt mùng, mung lung đen đặc. Tàu đi hay đứng nào có khác gì nhau. Phương hướng cũng mịt mù, tất cả chỉ trông vào cây kim của la bàn mà thôi. Đứng trên đài chỉ huy mà tôi như thấy có một sức kéo nặng nề liên tục từ lòng biển sâu miệt mài hút xuống. Tuy biết mọi sự bình thường nhưng tôi vẫn có cảm giác như tàu đang trôi đi, không định hướng giữa cơn mơ dị kỳ, huyền hoặc. Quanh tàu, dưới ánh đèn hải hành thì trắng xoá, mờ nhoà như nỗi lo âu trong lòng tôi, sĩ quan trưởng phiên. Quanh tôi, những nhân viên im lìm thu mình trong tấm áo ấm, lặng lẽ như những bóng ma. Mình đi đúng đường không. Mình tỉnh hay thức đây. Radar mở tối đa tầm nhìn chỉ thấy những echo giả lẫn với những đám mây. Không thấy gì ở trước mặt. Giữa lúc lo âu như thế Hạm Trưởng lên đài chỉ huy. Oâng ngồi thu mình trên ghế bành da, kéo cao cổ áo, lập loè điếu thuốc trên môi. Mọi người, không ai bảo ai, cả hạm phó ( Hùng Mèo ) đều có mặt trên đài chỉ huy. Tôi lấy compas đo từng bước theo tốc độ. Cứ như dự trù, chiến hạm chỉ còn cách mũi Diamont của Hawaii khoảng 30 hải lý mà thôi. Hạm Trưởng nói : “ Bảo nhân viên thám xuất cho chạy máy đo chiều sâu và chỉnh lại radar xem sao “. Con tàu vẫn lầm lũi tiến. Mấy nhân viên quan sát bỗng đứng không, vì ống nhòm bị các sĩ quan sử dụng hết. Bản đồ Hawaii được mở ra. Hạm Trưởng chăm chú theo dõi từng chi tiết. (xem tiếp số tới)

Posted on Thursday, May 12 @ 17:37:37 EDT by admin
 
Related Links
· More about Lịch Sử Qua Lời Ke
· News by admin


Most read story about Lịch Sử Qua Lời Ke:
Đời Sống Người Tù Cải Tạo

Article Rating
Average Score: 0
Votes: 0

Please take a second and vote for this article:

Excellent
Very Good
Good
Regular
Bad

Options

 Printer Friendly Printer Friendly


Associated Topics

Lịch Sử Qua Lời Ke


 
Copyright 2005 by MachSong, Inc.
PHP-Nuke 2004 by Francisco Burzi
Mach Song Online.
Publisher: Nguyen Dinh Thang