Trung Quốc xâm lược: Ắt phải xẩy ra
LTS. Việc Trung Quốc kéo và đặt
giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam là việc sẽ phải xảy ra, không
sớm thì muộn, vì nó nằm trong kế hoạch bành trướng của Bắc Kinh. Vì thống thuộc đảng Cộng Sản
Trung Quốc, các lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam đã tự che mắt với mối hoạ nghìn năm từ
phương Bắc. Dưới đây chúng tôi đăng một số trích đoạn trong sách Chính Đề Việt
Nam, viết cách đây hơn nửa thế kỷ ở miền Nam. Chúng tôi cũng đăng lại bài Vận
Nước Nhìn Từ Trường Sa của Ts. Luật Cù Huy Hà Vũ viết từ trong nhà tù (lấy bút
hiệu Sơn Văn để tránh bị phát giác). Viết từ hai góc nhìn khác nhau, Nam và Bắc,
nhưng cùng kết luận: Còn thống thuộc Trung Quốc thì sẽ mất nước.
Chính Đề Việt Nam
…
Đối với các
nhà lãnh đạo phía Bắc, nghiên cứu các sáng tác về chính trị cũng như các hành
động chính trị của họ, chúng ta công nhận rằng, nhờ sự nghiệp nghiên cứu các
thực tế lịch sử của Cộng Sản quốc tế, vấn đề căn bản của dân tộc có thể đã được
họ nhìn thấy rõ hơn. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo Nga Sô đã sử dụng thuyết Cộng
Sản như là một lợi khí để chiến đấu với Tây phương, như chúng ta đã nhận thức
trong các trang trên đây và chính Mao Trạch Đông đã viết câu sau đây về thuyết
Cộng Sản.
“Sở dĩ chúng ta nghiên cứu thuyết
Các-mác không phải vì luận điệu tốt đẹp của nó, cũng không phải vì nó đựng một
phép thần diệu để trừ ma quỉ. Nó không đẹp, nó cũng không thần diệu. Nó chỉ ích
lợi. Có nhiều người cho nó là thần dược trừ bá chứng. Chính những người này đã
xem thuyết Các-mác là một giáo lý. Phải nói cho những người này hiểu rằng giáo
lý của họ không có ích lợi bằng phân bón. Phân bón còn làm giàu ruộng đất, giáo
lý không làm được việc đó.”
Nghĩa là các lãnh tụ tối
cao của khối Cộng Sản đều xem thuyết Cộng Sản là một phương tiện. Họ chế ngự
phương tiện tinh thần đó – do Tây phương phát minh ra – cũng như những phương
tiện vật chất khác của Tây phương. Ngược lại, các sáng tác chính trị của các
nhà lãnh đạo phía Bắc, lại chứng tỏ rằng, những người lãnh đạo này còn đang say
mê thuyết Cộng Sản và đương nhiên tôn nó lên hàng một chân lý. Đưa một phương
tiện chiến đấu của người, lên làm một chân lý của mình, là mặc nhiên hạ mình
xuống thấp hơn một bậc đối với các lãnh tụ Cộng Sản quốc tế và tự biến mình
thành một thứ nô lệ trí thức để cho người sử dụng. Vì vậy cho nên, trong nhiều
hành động chính trị của các nhà lãnh đạo phía Bắc, lý thuyết Cộng Sản được để
lên trên quyền lợi của dân tộc, điều ấy chứng tỏ rằng, trong lĩnh vực ngoại
giao giữa các quốc gia, họ tin rằng một sự đồng minh về lý thuyết có thể đặt
trên quyền lợi của dân tộc.
Do các lý lẽ
trên đây chúng ta có thể quả quyết rằng các nhà lãnh đạo phía Bắc vẫn chưa nhận
thức nguy cơ đang đe dọa dân tộc và những ngày đen tối của chúng ta vẫn còn
tiếp tục.
...
Giả sử, sự
thống nhất do Bắc Việt thực hiện, thì với sự chị phối nặng nề của Trung Cộng
đối với Bắc Việt, sự phát triển dân tộc Việt Nam chắc chắn sẽ không thực hiện
được vì hai lý do.
Công cuộc
phát triển của nước Tàu, mục đích trên hết và trước hết của các nhà lãnh đạo
Trung Cộng, như chúng ta đã biết, là một công cuộc vô cùng khó khăn. Nếu Việt
Nam dính liền vận mạng của dân tộc với Trung Cộng, thì công cuộc phát triển của
chúng ta cũng trở thành vô cùng khó khăn. Hơn nữa, nhu cầu của Việt Nam trong
công cuộc phát triển sẽ đương nhiên ở vào hàng thứ yếu đối với nhu cầu phát
triển của Trung Cộng. Và trên phương diện Tây phương hóa, chúng ta sẽ là một
thứ học trò hạng ba, sẽ dẫm chân vào những lỗi lầm không tránh được của người
học trò hạng nhì.
Đó là trong
trường hợp mà Trung Cộng chỉ có thiện chí đối với Việt Nam. Căn cứ trên một
ngàn năm lịch sử bang giao giữa hai quốc gia, chúng ta có thể quả quyết rằng
trường hợp này không bao giờ phát triển được, mà lại chúng ta sẽ tròng vào cổ
dân tộc cái ách nô lệ mà tổ tiên chúng ta, trong một ngàn năm đã đổ nhiều xương
máu để loại trừ.
…
Vì lệ thuộc
đối với một chủ nghĩa, mà cả Nga Sô lẫn Trung Cộng đều sử dụng như là một
phương tiện chiến đấu khả dĩ làm cho dân tộc họ, các nhà lãnh đạo Cộng Sản Việt
Nam đã tạo thời cơ cho thực dân Pháp thực hiện được những thủ đoạn chính trị
của họ, mà hậu quả đã đưa đến sự chia đôi lãnh thổ ngày nay.
Sự lệ thuộc
nói trên và sự chia đôi lãnh thổ đã tạo hoàn cảnh cho sự chi phối và sự toan
thống trị của nước Tàu đối với Việt Nam tái hiện dũng mãnh, sau gần một thế kỷ
vắng mặt. Ký ức của những thời kỳ thống trị tàn khốc của Tàu đối với chúng ta
còn ghi trong mỗi trang lịch sử của dân tộc và trong mỗi tế bào của thân thể
chúng ta.
Các nhà lãnh
đạo miến Bắc, khi tự đặt mình vào sự chi phối của Trung Cộng, đã đặt chúng ta
trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng
những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của chúng ta, mà lại còn đe dọa đến sự
tồn tại của dân tộc.
Sở dĩ, tới
ngày nay, sự thống trị của Trung Cộng đối với Việt Nam chưa thành hình, là vì
hoàn cảnh chính trị thế giới chưa cho phép, và sự tồn tại của miền Nam dưới ảnh
hưởng của Tây phương là một trở lực vừa chính trị vừa quân sự cho sự thống trị
đó. Giả sử mà Nam Việt bị Bắc Việt thôn tính, thì sự Trung Cộng thôn tính Việt
Nam chỉ là một vấn đề thời gian.
Trong hoàn
cảnh hiện tại, sự tồn tại của miền Nam vừa là một bảo đảm cho dân tộc thoát
khỏi ách thống trị của Trưng Cộng, vừa là một bảo đảm một lối thoát cho các nhà
lãnh đạo Cộng Sản Bắc Việt, khi họ ý thức nguy cơ họ đang tạo cho dân tộc.
Nhưng ngày nào họ vẫn tiếp tục thực hiện ý định xâm chiếm miền Nam thì họ vẫn
còn chịu sự chi phối của chính sách chiến tranh xâm lăng của Trung Cộng, thay
vì chính sách sống chung hòa bình của Nga Sô.
Vì vậy cho
nên, sự mất còn của miền Nam, ngày nay, lại trở thành một sự kiện quyết định sự
mất còn trong tương lai của dân tộc. Do đó, tất cả nỗ lực của chúng ta trong
giai đoạn này phải dồn vào sự bảo vệ tự do và độc lập, và sự phát triển cho
miền Nam để duy trì lối thoát cho miền Bắc và cứu dân tộc khỏi ách thống trị
một lần nữa.
Sơn Văn – Vận nước nhìn từ Trường Sa
Posted on Tháng Một 22, 2013 by Bauxite
Việt Nam
Đất nước
nào, dân tộc nào cũng có những giai đoạn sự kiện bản lề – hoặc tự đánh mất
mình, hoặc thăng hoa, cất cánh – mà ta gọi là vận nước. Đối với đất nước, dân
tộc Việt Nam ở thời điểm hiện tại, giữ hay không giữ được Trường Sa trước xâm
lược đã được Trung Quốc lên nòng, ấy là vận nước!
“Quốc gia
hưng vong, thất phu hữu trách”, tôi – một người sinh ra và lớn lên trong một
gia đình có truyền thống yêu nước, cũng giống trường hợp TS. Cù Huy Hà Vũ, GS.
Nguyễn Huệ Chi và nhiều trí thức nổi tiếng hiện nay trên khắp nước ta – càng
không thể không lên tiếng trước vận nước ấy!
Trước hết,
cần khẳng định một lần nữa âm mưu của Trung Quốc đánh chiếm nốt toàn bộ Trường
Sa của Việt Nam. Thực vậy, Trung Quốc không chỉ tuyên bố chủ quyền đối với
Hoàng Sa và Trường Sa cũng như đối với 80% Biển Đông bất chấp thực tế lịch sử
và luật pháp quốc tế về biển mà bằng một loạt hành vi khác nhau cụ thể hóa
tuyên bố chủ quyền phi pháp đó: từ việc dùng vũ lực chiếm toàn bộ Hoàng Sa vào
năm 1974 và một phần Trường Sa vào năm 1988 đến việc thành lập thành phố Tam Sa
gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa, mời thầu thăm dò dầu khí, cấm ngư dân Việt Nam
đánh bắt cá rồi tấn công tàu, thuyền và bắt giữ ngư dân Việt Nam trong vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam… Việc Trung Quốc mới đây đưa vào sử dụng tàu sân bay
Liêu Ninh và các tàu đổ bộ có sức chứa khoảng 800 quân và 20 xe tăng, xe bọc
thép mỗi tàu trong biên chế Hạm đội Nam Hải là những bằng chứng rõ nhất về âm
mưu xâm lược Trường Sa ấy của Trung Quốc.
Trước một
quyết tâm xâm lược Trường Sa như thế của Trung Quốc hiển nhiên Việt Nam phải tự
vệ trừ phi đầu hàng! Vậy một câu hỏi được đặt ra: thực chất của các cuộc đàm
phán giữa Việt Nam và Trung Quốc mà sản phẩm là “Thỏa thuận về những nguyên tắc
cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” ký tháng 10/2011 là gì?
Như chúng ta
đều biết, đàm phán chỉ có thể có giá trị khi tương quan lực lượng quân sự của
các bên liên quan là tương đối cân bằng, không bên nào có thể giành thắng lợi
tuyệt đối trong đối đầu trực tiếp. Thực tế cho thấy hiện nay Việt Nam kém Trung
Quốc rất xa về năng lực quốc phòng nói chung, hải quân nói riêng, cả về số
lượng lẫn chất lượng, tức đàm phán đối với Trung Quốc chỉ là một cách để thực
hiện mục tiêu quân sự. Thực vậy, Điều 5 Thỏa thuận quy định: “giải quyết vấn đề
trên biển theo đúng tinh thần “tuần tự, tiệm tiến, dễ trước, khó sau”. Với quy
định này, Trung Quốc tạo cho Việt Nam ảo tưởng rằng Trung Quốc sẽ không đụng
đến Trường Sa trong ngắn hạn vì Trường Sa cũng như Hoàng Sa là vấn đề khó, hai
bên phải bàn bạc dài lâu để giải quyết dẫn đến Việt Nam không có phương án
phòng vệ tích cực như liên minh quân sự với nước thứ ba, điều này hẳn nhiên tạo
điều kiện cho Trung Quốc tập kích thành công Trường Sa. Nói cách khác, đàm phán
nói chung, “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề
trên biển giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa” nói riêng đối với Trung Quốc chỉ là kế “giương Đông, kích Tây” hay
“nói một đằng, làm một nẻo” nhằm làm Việt Nam chủ quan để Trung Quốc dễ dàng
đánh chiếm Trường Sa hoặc chỉ là chiến thuật “câu giờ” cho đến khi nước này
chuẩn bị đủ các phương tiện chiến tranh bảo đảm thắng lợi trong cuộc chiến ấy.
Về phía
mình, Chính phủ Việt Nam hẳn hy vọng Thỏa thuận này sẽ bảo đảm “statu quo” hay
“nguyên trạng” ở Biển Đông, tức Việt Nam không dùng vũ lực để thu hồi Hoàng Sa
thì Trung Quốc cũng không dùng vũ lực để chiếm lấy Trường Sa, theo kiểu “Ta
không đụng đến mi thì mi cũng đừng đụng đến ta”, tóm lại là Chính phủ không
phải lo chiến đấu với “giặc ngoài” để tập trung nguồn lực quốc phòng cho chiến
đấu với “thù trong” mà ở đây là “Diễn biến hòa bình” nhằm bảo vệ chế độ Xã hội
chủ nghĩa! Tuy nhiên hy vọng này của Chính phủ Việt Nam sẽ chẳng bao giờ thành
hiện thực vì, như trên đã phân tích, đàm phán, thỏa thuận đối với Trung Quốc
chỉ là bước đi chiến thuật trong chiến lược đánh chiếm Trường Sa, thâu tóm Biển
Đông!
Do đó, để
Trường Sa không mất vào tay Trung Quốc trong một cuộc xâm lược đã được nước
bành trướng này “lập trình”, ViệtNam ngày nay chỉ có thể bắt chước cha ông của
thủa Diên Hồng mà hô “đánh!”. Nói cách khác, tự vệ là lựa chọn duy nhất đúng để
Việt Nam bảo toàn lãnh thổ của mình trên Biển Đông.
Đi vào cụ
thể, Việt Nam có hai phương thức tự vệ. Một là: “Tự lực cánh sinh”, dựa vào
năng lực quốc phòng của bản thân. Hai là, liên minh quân sự với nước ngoài. Thế
nhưng, như trên đã đề cập, sức mạnh quân sự của Việt Nam thua rất xa sức mạnh
quân sự của Trung Quốc, nhất là trên biển. Chỉ riêng tàu sân bay Liêu Ninh cũng
đã đủ giúp Trung Quốc chiếm thế thượng phong trong hải chiến với Việt Nam. Đó
là chưa nói để hỗ trợ cho việc đánh chiếm Trường Sa, Trung Quốc hoàn toàn có
thể tiến hành mặt trận thứ hai trên đất liền, dọc toàn tuyến biên giới với Việt
Nam, như Trung Quốc đã làm vào đầu năm 1979, nhằm phân tán hơn nữa nguồn lực
quốc phòng của Việt Nam dành cho phòng thủ Trường Sa. Điều này có nghĩa nếu
Việt Nam chỉ dựa vào năng lực quốc phòng của bản thân thì không chỉ mất nốt
Trường Sa vào tay Trung Quốc mà ngay nền độc lập của Việt Nam cũng sẽ như
“trứng để đầu đẳng”!
Từ đó đi đến
kết luận rằng cách duy nhất để bảo vệ Trường Sa tiến tới thu hồi Hoàng Sa cũng
như bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông và trên đất liền là liên minh
quân sự với nước ngoài. Vả lại, lịch sử đã chứng minh rằng sở dĩ Việt Nam đã
giành thắng lợi trong các cuộc chiến tranh ở thế kỷ XX là do đã liên mình quân
sự với các cường quốc quân sự ngoài lòng yêu nước nồng nàn của người Việt Nam
được hun đúc qua hàng nghìn năm. Thực vậy, Việt Nam đánh thắng Thực dân Pháp
tái xâm lược, đặc biệt tại quyết chiến điểm Điện Biên Phủ vào năm 1954 là do có
đại bác, pháo cao xạ và các phương tiện chiến tranh khác do hai nước “anh em xã
hội chủ nghĩa” là Liên Xô và Trung Quốc viện trợ; Việt Nam đánh thắng can thiệp
Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam, đặc biệt trong cuộc tập kích chiến lược
bằng B52 của Mỹ vào Hà Nội kéo dài 12 ngày đêm cuối tháng 12 năm 1972 là do có
viện trợ quân sự hùng hậu và hiện đại, trong đó có hàng nghìn quả tên lửa đất
đối không, vẫn của Liên Xô và Trung Quốc; Việt Nam đánh thắng Trung Quốc trong
chiến tranh biên giới vào đầu năm 1979 cũng là do có viện trợ quân sự hùng hậu
và cấp tốc của Liên Xô sau khi Việt Nam ký với cường quốc quân sự này một hiệp
ước liên minh quân sự vào năm trước đó, 1978.
Vấn đề còn
lại là nước nào có thể là chỗ dựa và đồng hành với Việt Nam trong trận chiến
chống xâm lược từ phía Trung Quốc? Hỏi tức trả lời, đó chỉ có thể là Mỹ, như
Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ đã chỉ ra cách đây 3 năm, 2010, trong các trả lời
phỏng vấn của Đài Tiếng nói Hoa Kỳ – VOA (“Tham vọng của Trung Quốc trên Biển
Đông là quá rõ ràng”, “Đồng hành quân sự với Hoa Kỳ là mệnh
lệnh của thời đại”).
Trước khi đi
vào phân tích kịch bản liên minh quân sự với Mỹ, tôi thấy cần thiết phải loại
bỏ ngay ảo tưởng dựa vào Nga để chống Trung Quốc xâm lược. Thực vậy, Nga không
còn là Liên Xô để có thể giúp ViệtNamchống Trung Quốc như cách đây 34 năm.
Không những thế, hiện nay Nga rất cần Trung Quốc không chỉ với tư cách là khách
hàng hàng đầu mà còn với tư cách là đồng minh quân sự tiềm tàng của Nga để
chống lại sức ép quân sự – chính trị của NATO (khối quân sự Bắc Đại Tây Dương)
nói riêng, của phương Tây nói chung, đồng nghĩa Nga sẽ không bao giờ đứng về
phía Việt Nam nếu xung đột quân sự giữa Việt Nam và Trung Quốc nổ ra. Việc Nga
đã bán được cho Trung Quốc 8 tỉ USD hàng hóa chỉ trong chuyến đi thăm Trung
Quốc của Tổng thống Nga Putin vào tháng 10/2011 cũng như việc Hạm đội Thái Bình
Dương của Nga tập trận chung với hải quân Trung Quốc tại Hoàng Hải vào tháng
4/2012 hẳn là những bằng chứng đầy sức thuyết phục cho nhận định trên. Bản thân
việc Trung Quốc đón Tổng thống Nga Putin và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Phú Trọng sang thăm Trung Quốc vào cùng một ngày, 11/10/2011, cũng đã là
lời nhắn rằng Việt Nam đừng trông mong vào Nga để chống Trung Quốc! Để nói,
điều duy nhất mà Việt Nam có thể khai thác từ Nga để phòng vệ chống lại Trung
Quốc là mua vũ khí, đặc biệt các phương tiện chiến tranh trên biển, từ nước cựu
xã hội chủ nghĩa này theo kiểu “tiền trao, cháo múc”. Thế nhưng tài chính của
Việt Nam là rất hạn hẹp, đó là chưa nói đến việc Nga bán cho Trung Quốc vũ khí
cùng chủng loại bán cho Việt Nam với số lượng nhiều lần hơn, tàu ngầm là một ví
dụ. Tóm lại, chạy đua vũ trang với Trung Quốc là điều không tưởng đối với Việt
Nam, nhất là trong bối cảnh Trung Quốc đã trở thành cường quốc kinh tế số 2 thế
giới, chỉ sau Mỹ!
Cũng như
vậy, Việt Nam không thể trông mong vào ASEAN vì ASEAN không phải là một tổ chức
quân sự đã đành, mà cũng không có thiết chế quân sự, chí ít cho đến lúc này. Đó
là chưa nói mới chỉ trên bình diện đối ngoại, các nước ASEAN đã không có được
sự thống nhất trong việc phản đối Trung Quốc gây hấn trên Biển Đông dẫn đến hội
nghị ASEAN lần thứ 45 tổ chức tại Campuchia đã không ra được thông cáo chung,
sự kiện chưa từng có trong lịch sử tổ chức này.
Trở lại kịch
bản liên minh quân sự với Mỹ, nước này có đủ các điều kiện cần thiết để giúp
Việt Nam bảo vệ Trường Sa nói riêng, chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông và
trên đất liền nói chung, trong trường hợp Trung Quốc xâm lược. Các điều kiện ấy
như sau:
Mỹ là siêu
cường quân sự duy nhất trên thế giới, là nước phương Tây duy nhất có Hạm đội ở
Thái Bình Dương. Ngoài ra, với tư cách là nhân tố chủ chốt của NATO, Mỹ hoàn
toàn có thể vận dụng sức mạnh của khối quân sự lớn nhất thế giới này để duy trì
hòa bình, ổn định ở Tây Thái Bình Dương trong đó có Biển Đông. Nói cách khác,
với Mỹ, NATO hoàn toàn có thể “Viễn Đông hóa”!
Với chiến
lược quân sự mới đề ra cho thế kỷ XXI, lấy Châu Á – Thái Bình Dương nói chung,
Đông Á nói riêng, làm trọng tâm mà Tổng thống Mỹ Obama đưa ra đầu năm 2012 –
chiến lược quân sự mà tôi đặt tên là “Obamasia” – Mỹ là nước duy nhất chủ động
ngăn chặn bành trướng quân sự của Trung Quốc trong khu vực. Việc Thượng viện Mỹ
mới đây ra nghị quyết về Biển Đông theo đó Mỹ chống lại mọi hành vi dùng vũ lực
hoặc đe dọa dùng vũ lực để giải quyết tranh chấp trên biển và chủ trương tự do
hàng hải là bằng chứng nặng ký nữa về quyết tâm quân sự mới của Mỹ ở thế kỷ
XXI.
Trung Quốc
phụ thuộc nặng nề, nếu không muốn là tự trói mình vào Mỹ khi đã mua hơn 1000 tỉ
USD trái phiếu Chính phủ Mỹ, đồng nghĩa Trung Quốc sẽ không mạo hiểm mà lựa
chọn đối đầu quân sự với Mỹ.
Ngoài ra,
tôi ủng hộ Việt Nam liên minh quân sự với Mỹ còn nhằm mục đích kinh tế, bởi
liên minh quân sự giữa hai nước một khi được thiết lập sẽ là cơ sở để Mỹ hỗ trợ
cho Việt Nam những khoản tài chính cũng như công nghệ rất quan trọng tạo điều
kiện cho Việt Nam có được những bứt phá thần kỳ về kinh tế. Thực tế cho thấy,
nhờ viện trợ kinh tế hùng hậu của Mỹ mà Tây Âu, Nhật, Hàn Quốc kiệt quệ sau
chiến tranh đều trở thành các trung tâm kinh tế thế giới hay khu vực. Thực ra,
chỉ riêng việc Mỹ bảo trợ cho phòng thủ quốc gia của các đồng minh của Mỹ cũng
đã đủ để các nước này chuyển tài lực đáng kể lẽ ra phải chi cho quốc phòng sang
phát triển kinh tế. Tóm lại, liên minh quân sự với Mỹ là “nhất cử lưỡng tiện”.
Thế nhưng
“ăn có mời, làm có khiến”, nước Mỹ không thể mang tài lực, sức mạnh quân sự của
mình để bảo vệ lãnh thổ của Việt Nam, đặc biệt trên Biển Đông mà ở đây là Hoàng
Sa và Trường Sa, nếu Việt Nam không chính thức yêu cầu Mỹ, làm như vậy thông
qua một hiệp ước liên minh quân sự với nước này. Dĩ nhiên trong quan hệ quốc tế
không ai cho không ai, điều này có nghĩa Việt Nam muốn Mỹ bảo vệ chủ quyền của
Việt Nam trên Biển Đông nói riêng, lãnh thổ của Việt Nam nói chung thì Việt Nam
không đáp ứng đòi hỏi của Mỹ là Dân chủ hóa chế độ chính trị bằng cách bảo đảm
thực sự tự do ngôn luận và các nhân quyền khác, trả tự do cho những người bất
đồng chính kiến bị cầm tù và tiến tới thực hiện bầu cử tự do với sự tham gia
của nhiều đảng phái, tương tự những gì đã và đang diễn ra tại một nước Đông Nam
Á khác vốn có cùng chế độ độc tài là Myanmar. Tôi cho rằng đòi hỏi cải cách thể
chế theo hướng dân chủ, tự do này của Mỹ là hợp lý bởi chính Hồ Chí Minh đã
từng coi Mỹ là hình mẫu thể chế cho Việt Nam. Thực vậy, Hồ Chí Minh không chỉ
lấy Tuyên ngôn độc lập của Mỹ làm đề dẫn cho Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam mà
còn lấy tên của hai chính đảng lớn nhất của Mỹ luân phiên cầm quyền là Dân Chủ
và Cộng hòa làm quốc hiệu cho Việt Nam độc lập: Việt Nam dân chủ cộng hòa!
Đáng tiếc là
nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã không vượt qua được chính mình để quốc gia không
những không bị xâm hại mà còn hưởng lợi khi hơn một lần thể hiện quan điểm
“không có chuyện Việt Nam thay đổi chế độ chính trị, từ bỏ chủ nghĩa xã hội
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam để đổi lấy sự giúp đỡ của Mỹ nhằm
bảo vệ chủ quyền và lãnh thổ của Việt Nam ở Biển Đông”. Mới đây Thủ tướng Việt
Nam Nguyễn Tấn Dũng khẳng định lại quan điểm này bằng tuyên bố Việt Nam sẽ
không liên minh quân sự với các nước khác để chống lại nước thứ ba trong trường
hợp nước này dùng vũ lực xâm phạm chủ quyền và lãnh thổ của Việt Nam!
Mặc dầu vậy,
tôi vẫn tin rằng Trường Sa sẽ không thể mất cũng như Hoàng Sa sẽ không thể vĩnh
viễn mất vào tay bành trướng phương Bắc bởi chính nhân dân Việt Nam chứ không
phải ai khác sẽ đứng lên nắm lấy vận nước, nắm lấy vận mệnh của chính mình./.
Note: